RỐI LOẠN CƯƠNG DƯƠNG Ở NAM GIỚI

Rối loạn cương dương (Bất lực)

Theo Irvin H. Hirsch , MD, Sidney Kimmel Medical College of Thomas Jefferson University

Rối loạn rối loạn cương dương là không có khả năng đạt được hoặc duy trì sự cương cứng của dương vật để tiến hành cuộc giao hợp trọn vẹn. Hầu hết các rối loạn cương dương đều liên quan đến chứng rối loạn về mạch máu, thần kinh, tâm lý và hoóc môn; việc sử dụng thuốc cũng có thể là một nguyên nhân. Đánh giá bệnh gồm sàng lọc các bệnh lý nền và đo nồng độ testosterone. Các lựa chọn điều trị bao gồm các thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống, prostaglandin đặt trong niệu đạo hoặc tiêm trực tiếp vào dương vật, các thiết bị hút chân không và phẫu thuật thay vật hang nhân tạo.

Rối loạn cương dương (RLCD, trước đây gọi là bệnh liệt dương) ảnh hưởng đến 20 triệu nam giới ở Mỹ. Tỷ lệ rối loạn cương dương hoàn toàn hoặc một phần là > 50% ở nam giới tuổi từ 40 đến 70, và tỷ lệ mắc tăng theo tuổi tác. Hầu hết những nam giới bị ảnh hưởng bởi rối loạn cương dương đều có thể điều trị thành công.

Nguyên nhân

Có 2 loại rối loạn cương dương

  • Rối loạn cương dương nguyên phát, người đàn ông chưa bao giờ có thể đạt được hoặc duy trì sự cương cứng dương vật.
  • Rối loạn cương dương thứ phát, xuất hiện trong cuộc đời của một người đàn ông mà trước đây họ cương cứng bình thường.

Rối loạn cương dương nguyên phát là rất hiếm và gần như luôn luôn do các yếu tố tâm lý hoặc bất thường rõ ràng giải phẫu.

Rối loạn cương dương thứ phát phổ biến hơn và > 90% trường hợp có nguyên nhân thực thể. Nhiều người đàn ông bị rối loạn cương dương thứ phát hình thành những vấn đề tâm lý tiêu cực, điều này làm tồi tệ hơn tình trạng rối loạn cương dương.

Các yếu tố tâm lý, đều phải được xem xét trong mọi trường hợp của rối loạn cương dương, dù là tâm lý phản ứng hay tâm lý nguyên phát. Các nguyên nhân tâm lý của RLCD nguyên phát bao gồm cảm giác tội lỗi, nỗi sợ hãi quan hệ tình dục, trầm cảm, hoặc lo âu. Trong rối loạn cương dương thứ phát, các nguyên nhân có thể liên quan đến tình trạng lo lắng, căng thẳng, hoặc trầm cảm. RLCD do tâm lý có thể là xuất hiện ở một tình huống, liên quan đến một nơi, một khoảng thời gian hoặc đối tác cụ thể.

Các nguyên nhân chính của RLCD là

  • Rối loạn mạch máu
  • Rối loạn thần kinh

Những rối loạn này thường xuất phát từ xơ vữa động mạch hoặc đái tháo đường.

Phổ biến nhất nguyên nhân mạch máu là chứng xơ vữa động mạch hang dương vật, thường do hút thuốc và đái tháo đường. Xơ vữa động mạch và sự lão hóa làm giảm khả năng giãn của động mạch và giãn của cơ trơn thành mạch, làm giảm lượng máu đi vào dương vật (xem Sự cương cứng). Rối loạn cơ chế gây tắc nghẽn tĩnh mạch làm cho máu thoát ra từ tĩnh mạch, dẫn đến không có khả năng duy trì sự cương cứng.

Cương đau dương vật, thường liên quan đến việc sử dụng trazodone, lạm dụng cocaine và bệnh hồng cầu hình liềm có thể gây xơ hóa dương vật và dẫn đến ED bằng cách gây xơ hóa vật hang và do đó làm giảm lưu lượng máu đến dương vật cần thiết cho việc cương cứng.

Nguyên nhân thần kinh bao gồm đột quị, động kinh cục bộ phức tạp, bệnh đa xơ cứng, các bệnh lý thần kinh ngoại biên, tự chủ và các tổn thương tủy sống. Bệnh thần kinh đái tháo đường và tổn thương do phẫu thuật là những nguyên nhân phổ biến.

Các biến chứng của phẫu thuật vùng chậu (ví dụ, cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt để (thậm chí với các kỹ thuật bảo tồn thần kinh), cắt bỏ bàng quang triệt để, phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt qua đường niệu đạo, phẫu thuật ung thư trực tràng) là những nguyên nhân phổ biến khác. Các nguyên nhân khác bao gồm rối loạn nội tiết, thuốc, tia xạ vùng chậu, và các rối loạn cấu trúc của dương vật (ví dụ: Bệnh xơ hóa vật hang). Áp lực tác động lên vùng chậu kéo dài (như xảy ra trong quá trình đạp xe) hoặc chấn thương khung chậu hoặc vùng đáy chậu có thể gây RLCD.

Bất cứ bệnh lý nội tiết hoặc sự lão hóa nào liên quan đến thiếu hụt testosterone(suy sinh dục) có thể làm giảm ham muốn tình dục và gây RLCD. Tuy nhiên, chức năng cương cứng hiếm khi được cải thiện với sự bình thường hóa nồng độ testosterone huyết thanh bởi vì hầu hết những người bị ảnh hưởng cũng có các nguyên nhân thần kinh-mạch máu gây RLCD.

Nhiều thuốc có thể là nguyên nhân(xem Bảng: Các thuốc được sử dụng có thể gây ra rối loạn cương dương). Rượu cũng có thể gây RLCD tạm thời.

Chẩn đoán

  • Đánh giá lâm sàng
  • Sàng lọc trầm cảm
  • Định lượng nồng độ Testosterone

Đánh giá lâm sàng nên bao gồm tiền sử dùng thuốc (kể cả thuốc theo toa và các sản phẩm thảo dược) và sử dụng rượu, phẫu thuật vùng chậu và chấn thương, hút thuốc, đái tháo đường, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch và các triệu chứng rối loạn về mạch máu, hoocmon, thần kinh và tâm thần. Nên tìm hiểu sự hài lòng của bệnh nhân với các mối quan hệ tình dục, bao gồm đánh giá của bạn tình và rối loạn chức năng tình dục của bạn tình (ví dụ viêm teo âm đạo, chứng giao hợp đau, trầm cảm).

Điều quan trọng là phải sàng lọc trầm cảm, điều này không phải lúc nào cũng rõ ràng. Thang điểm đánh giá trầm cảm trầm cảm Beck hoặc đối với những người đàn ông cao tuổi có thang điểm đánh giá trầm cảm người cao tuổi Yesavage (xem Bảng: Thang trầm cảm ở người cao tuổi (dạng ngắn)) rất dễ sử dụng và đánh giá.

Thăm khám nên tập trung vào bộ phận sinh dục và các dấu hiệu của rối loạn nội tiết, thần kinh, và mạch máu. Bộ phận sinh dục được khám phát hiện các dị thường, dấu hiệu suy sinh dục và các dải hoặc mảng xơ (bệnh xơ hóa vật hang). Rối loạn chức năng thần kinh biểu hiện giảm trương lực cơ thắt hậu môn, giảm cảm giác tầng sinh môn, hoặc phản xạ hành hang bất thường. Rối loạn chức năng mạch máu biểu hiện mạch ngoại vi nhỏ.

Nguyên nhân tâm lý nên được nghi ngờ ở những người đàn ông trẻ khỏe mạnh khới phát đột ngột RLCD, đặc biệt nếu khởi phát có liên quan đến một biến cố cảm xúc cụ thể hoặc nếu rối loạn xảy ra chỉ ở một số tình huống nhất định. Tiền sử bị RLCD nhưng tự cải thiện cũng cho thấy nguồn gốc tâm lý (RLCD do tâm lý). Nam giới với RLCD do tâm lý thường có cương dương vào ban đêm sau khi thức dậy vào buổi sáng bình thường, trong khi nam giới có RLCD do thực thể thì không.

Xét nghiệm

Xét nghiệm nên bao gồm đo nồng độ testosterone vào buổi sáng; nếu ở mức thấp hoặc bình thường – thấp, prolactin và hoocmon luteinizing (LH) nên được định lượng. Đánh giá bệnh đái tháo đường, rối loạn lipid máu, cường prolactin, bệnh tuyến giáp và hội chứng Cushing cần được thực hiện dựa trên nghi ngờ lâm sàng.

Đánh giá hệ mạch máu của dương vật bằng siêu âm duplex sau khi tiêm nội hang hỗn hợp thuốc giãn mạch gồm prostaglandin E1, papaverine, và phentolamine ( thuốc thương mại có sẵn dạng kết hợp). Các giá trị bình thường bao gồm vận tốc dòng chảy đỉnh tâm thu > 25 cm / giây và chỉ số kháng trở > 0,8. Chỉ số kháng trở là tỉ lệ giữa vận tốc đỉnh tâm thu và vận tốc cuối tâm trương. Đôi khi, một số bệnh nhân được xem xét phẫu thuật phục hồi mạch máu dương vật sau chấn thương vùng chậu, chụp động mạch chậu, chụp vật hang (giúp xác định vị trí rò rỉ tĩnh mạch) và có thể đo thể hang ký (giúp xác định mức độ rò rỉ tĩnh mạch). Cương dương vật khi ngủ sâu hay gặp ở nam giới khỏe mạnh. Sự cương dương này được đo bằng cách theo dõi sự cương cứng về đêm, có thể giúp phân biệt giữa nguyên nhân thực thể và tâm lý của rối loạn cương dương. Tuy nhiên, việc sử dụng hiện tại của các dụng cụ này chủ yếu là trong nghiên cứu y khoa.

Điều trị

  • Điều trị các nguyên nhân cơ bản
  • Thuốc, thường là thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống (xem Bảng: Thuốc ức chế PDE-5 đường uống điều trị rối loạn cương dương)
  • Thiết bị cương cứng hút chân không hoặc prostaglandin E1tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo (Điều trị bậc 2)
  • Nếu các phương pháp điều trị khác thất bại, có thể xem xét chỉ định phẫu thuật thay vật hang nhân tạo.

Cần điều trị các bệnh lý nền (ví dụ bệnh đái tháo đườngu tuyến yên tiết prolactinsuy sinh dụcbệnh peyronie – bệnh xơ hóa vật hang). Các loại thuốc có liên quan tạm thời đến sự khởi phát của RLCD cần được ngưng hoặc thay thế. Cần điều trị trầm cảm. Đối với tất cả bệnh nhân, các biện pháp tâm lý giúp bệnh nhân yên tâm và giáo dục bệnh nhân (bao gồm cả bạn tình của bệnh nhân) rất quan trọng.

Thêm vào đó, lựa chọn đầu tay là một thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống. Nếu cần thiết, một phương pháp không xâm lấn khác có thể được chỉ định chẳng hạn như thiết bị cương dương hút chân không hoặc prostagandin E1 đặt niệu đạo hoặc tiêm nội hang. Các phương pháp điều trị xâm lấn chỉ được sử dụng khi các phương pháp không xâm lấn thất bại. Tất cả các loại thuốc và thiết bị cần được thử ≥ 5 lần trước khi được coi là không có hiệu quả.

Thuốc điều trị rối loạn cương dương

Điều trị đầu tay trong RLCD thường là một thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống. Các thuốc khác được sử dụng bao gồm prostaglandin E1 tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo. Tuy nhiên, vì hầu hết các bệnh nhân đều muốn dùng thuốc uống, thuốc uống được chỉ định trừ khi có chống chỉ định hoặc không dung nạp.

Thuốc ức chế phosphodiesterase đường uống ức chế có chọn lọc guanosine monophosphate vòng (cGMP)-đặc biệt là phosphodiesterase type 5 (PDE5), chất đồng phân phosphodiesterase chủ yếu trong dương vật. Những loại thuốc này bao gồm sildenafil, vardenafil, avanafil và tadalafil (xem Bảng: Thuốc ức chế PDE-5 đường uống điều trị rối loạn cương dương). Thuốc có tác dụng làm cho cương cứng bình thường thông qua cơ chế ngăn ngừa sự thủy phân của cGMP, các thuốc này điều khiển sự giãn cơ trơn phụ thuộc cGMP. Mặc dù vardenafil và tadalafil có tính chọn lọc hơn đối với hệ mạch dương vật so với sildenafil, nhưng đáp ứng lâm sàng và tác dụng phụ của các thuốc này cũng tương tự nhau. Trong các thử nghiệm lâm sàng so sánh, các thuốc này cho thấy hiệu quả tương đương (60 đến 75%).

Tất cả các thuốc ức chế PDE5 gây giãn mạch vành trực tiếp làm tăng tác dụng hạ huyết áp của nitrat khác, kể cả những thuốc dùng để điều trị bệnh mạch vành cũng như amyl nitrat dạng hít (“poppers”). Do đó, việc sử dụng đồng thời nitrat và chất ức chế PED5 có thể gây nguy hiểm và nên tránh. Cần thảo luận về những nguy cơ, sự lựa chọn và thời gian thích hợp để sử dụng thuốc ức chế PDE5 với bác sĩ tim mạch ở những bệnh nhân chỉ thỉnh thoảng sử dụng nitrat (ví dụ như cơn đau thắt ngực không thường xuyên ).

Tác dụng ngoại ý của thuốc ức chế PDE5 bao gồm đỏ bừng mặt, bất thường thị giác, mất thính lực, rối loạn tiêu hóa và nhức đầu. Sildenafil và vardenafil có thể gây ra sự nhận thức màu sắc bất thường (lóe xanh). Sử dụng Tadalafil có mối liên quan với chứng đau cơ. Hiếm gặp, bệnh lý thị thần kinh thiếu máu (NAION) liên quan đến việc sử dụng thuốc ức chế PDE5, nhưng mối quan hệ nhân quả này vẫn chưa được chứng minh. Do có nguy cơ hạ huyết áp nên tất cả các thuốc ức chế PDE5 cần được sử dụng cẩn thận và ở những liều lượng ban đầu thấp hơn cho những bệnh nhân dùng thuốc chẹn alpha (ví dụ, prazosin, terazosin, doxazosin, tamsulosin). Bệnh nhân dùng thuốc chẹn alpha nên đợi ít nhất 4 giờ trước khi dùng thuốc ức chế PDE5. Hiếm khi, chất ức chế PDE5 gây ra hiện tượng cương đau dương vật.

Alprostadil (prostaglandin E1), tự sử dụng bằng tiêm nội hang hoặc đặt niệu đạo, có thể đạt được sự cương cứng với thời gian trung bình là 30 đến 60 phút. Để tăng hiệu quả điều trị có thể phối hợp alprostadil tiêm nội hang với papaverine và phentolamine. Liều dùng quá mức có thể gây ra cương đau dương vật ở ≤ 1% bệnh nhân và đau bộ phận sinh dục hoặc xương chậu khoảng 10%. Bác sĩ cần hướng dẫn và theo dõi để giúp bệnh nhân đạt được mục đích sử dụng tối ưu và an toàn, bao gồm giảm thiểu nguy cơ cương cứng kéo dài. Thuốc đặt niệu đạo có ít hiệu quả hơn trong việc tạo ra sự cương cứng thỏa đáng (lên tới 60% nam giới) so với tiêm nội hang (lên tới 90%). Đối với một số bệnh nhân không đáp ứng với điều trị đơn độc thuốc ức chế PDE5 cần xem xét chỉ định liệu pháp kết hợp giữa thuốc ức chế PDE5 và alprostadil đặt niệu đạo.

Thiết bị cơ học điều trị rối loạn cương dương

Những người đàn ông có thể đạt được nhưng không duy trì được sự cương cứng có thể sử dụng một vòng đai co thắt để giúp duy trì sự cương dương; một vòng đàn hồi được đặt xung quanh gốc của dương vật cương cứng, ngăn ngừa sự xìu xuống sớm. Những người đàn ông không thể đạt được sự cương cứng có thể sử dụng một thiết bị hút chân không kéo máu vào dương vật qua hoạt động hút, sau đó một vòng đàn hồi được đặt tại gốc của dương vật để duy trì sự cương cứng. Một số nhược điểm của phương pháp này là dương vật bị bầm tím, lạnh đầu dương vật và sự thiếu tự nhiên. Nếu cần các dụng cụ này cũng có thể được kết hợp với thuốc.

Phẫu thuật điều trị rối loạn cương dương

Nếu thuốc và thiết bị chân không thất bại có thể xem xét chỉ định phẫu thuật cấy ghép một bộ phận dương vật giả. Bộ phận cấy ghép giả bao gồm các thanh silicone bán cứng và các thiết bị gồm nhiều thành phần có thể bơm phồng bằng nước muối. Cả hai mẫu này đều có nguy cơ chung của gây tê, nhiễm trùng và sự đào thải vật ghép hoặc trục trặc bộ phận cấy ghép giả. Với các bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm, tỷ lệ nhiễm trùng kéo dài hoặc trục trặc của bộ phận cấy ghép giả là dưới 5% và tỷ lệ bệnh nhân và đối tác hài lòng là> 95%. Ưu điểm của việc cấy ghép dương vật giả bằng phẫu thuật là rõ ràng: cương cứng được tạo ra ngay lập tức và tự nhiên, sự cương cứng kéo dài cho đến khi bệnh nhân làm xẹp thiết bị của mình và hoạt động tình dục có thể diễn ra thường xuyên như mong muốn của cặp vợ chồng. Vì vậy khi so sánh mức độ hài lòng giữa tất cả các phương pháp điều trị, cấy ghép dương vật giả có tỷ lệ hài lòng cao nhất.

Nguồn tham khảo:

https://www.msdmanuals.com/vi/chuy%C3%AAn-gia/r%E1%BB%91i-lo%E1%BA%A1n-ti%E1%BA%BFt-ni%E1%BB%87u-sinh-d%E1%BB%A5c/r%E1%BB%91i-lo%E1%BA%A1n-t%C3%ACnh-d%E1%BB%A5c-%E1%BB%9F-nam-gi%E1%BB%9Bi/r%E1%BB%91i-lo%E1%BA%A1n-c%C6%B0%C6%A1ng-d%C6%B0%C6%A1ng

 

Bài viết liên quan

TRIỂN KHAI THÍ ĐIỂM KỸ THUẬT ĐO TRỞ KHÁNG NIÊM MẠC THỰC QUẢN MIVU

Phòng Khám Hoàng Long đã phối hợp và hỗ trợ công ty Vinmed triển khai thí điểm kỹ thuật đo trở kháng niêm mạc thực quản Mivu của hãng Diversatek Healthcare, đây là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay trong chẩn đoán Gerd. Việc thí điểm giúp các chuyên gia đầu ngành tiếp cận […]

Xem thêm

ĐÀO TẠO CẬP NHẬT KIẾN THỨC Y KHOA VỀ KỸ THUẬT THĂM DÒ NHU ĐỘNG ĐƯỜNG TIÊU HÓA

Khóa “ Đào tạo cập nhật kiến thức y khoa về kỹ thuật thăm dò nhu động đường tiêu hóa” được tổ chức bởi Viện Nghiên cứu và Đào tạo tiêu hóa – gan mật đã khép lại trong niềm hân hoan và vui mừng của tất cả các học viên tham dự. Khóa đào […]

Xem thêm

KỸ THUẬT TVT TRONG ĐIỀU TRỊ TIỂU KHÔNG TỰ CHỦ

Tension-Free Vaginal Tape (TVT) Kỹ thuật TVT Đây là thủ thuật đeo đai phổ biến nhất để khắc phục tình trạng tiểu không tự chủ do căng thẳng ở phụ nữ. Đây là phương pháp xâm lấn tối thiểu với tỷ lệ chữa khỏi cao (thành công > 95%) và ít biến chứng nhất nếu […]

Xem thêm

Tiểu không tự chủ

5 điểm chính: Có nhiều nguyên nhân gây tiểu không tự chủ mặc dù bệnh sử có vẻ giống nhau Điều quan trọng là phải xác định đúng loại tiểu không tự chủ và điều này cần có chuyên gia được đào tạo về rối loạn chức năng bàng quang Khám thực thể, xét nghiệm […]

Xem thêm

Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính(BPH)

Benign Prostatic Hyperplasia (BPH) Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính 5 điểm chính: BPH thường bắt đầu ở tuổi 50 Triệu chứng ban đầu là đi tiểu nhiều lần cả ngày lẫn đêm, sau đó là tiểu khó và chảy nước dãi cuối dòng. Nếu không được điều trị, tuyến tiền liệt phì đại […]

Xem thêm